Kết nối với chúng tôi

Hoạt Động KCN

Xây dựng các cơ sở y tế trong các khu công nghiệp theo quy mô lao động

Được phát hành

,

Trong kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XV diễn ra vào sáng ngày 29/5, Quốc hội tiếp tục thảo luận về kết quả giám sát việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; cũng như việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở và y tế dự phòng.

Sau khi theo dõi phiên thảo luận, cử tri đại diện tỉnh Bắc Giang đánh giá cao Báo cáo kết quả giám sát việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19; cũng như việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở và y tế dự phòng được trình bày bởi đại diện Đoàn giám sát của Quốc hội, và các ý kiến thảo luận của các đại biểu.

Cán bộ y tế Trung tâm Y tế các khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang tiêm vaccine phòng COVID-19 cho người lao động. Ảnh tư liệu: Danh Lam/TTXVN

Theo ông Nguyễn Hữu Sơn, Giám đốc Trung tâm Y tế các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang, Trung tâm Y tế là mô hình cơ sở y tế đầu tiên tại các khu công nghiệp trên toàn quốc. Trung tâm Y tế đóng vai trò là đầu mối triển khai, hướng dẫn, quản lý, theo dõi và giám sát hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe của người lao động, đảm bảo an toàn thực phẩm và các hoạt động dự phòng khác cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, ông Nguyễn Hữu Sơn nhận thấy qua thực tế hoạt động, chưa có mô hình cơ sở y tế tại các khu công nghiệp được thống nhất trên cả nước. Do đó, chưa có cơ chế và chính sách cụ thể dành cho Trung tâm Y tế các khu công nghiệp, cũng chưa có quy định rõ ràng về việc quản lý các đơn vị tư nhân hoặc đơn vị ngoài tỉnh cung cấp dịch vụ vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động, an toàn thực phẩm trong khu công nghiệp. Điều này đang gây khó khăn trong việc quản lý, theo dõi và tổng hợp thông tin về sức khỏe của người lao động trong khu công nghiệp.

Cử tri Nguyễn Hữu Sơn đề xuất cần xây dựng mô hình cơ sở y tế tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu chế xuất phù hợp với quy mô lao động và nhu cầu của từng địa phương. Đồng thời, cần có quy định về phân cấp quản lý chi tiết cho công tác vệ sinh lao động, sức khỏe người lao động và đảm bảo an toàn thực phẩm trong khu công nghiệp. Đề xuất cũng nhấn mạnh việc quy định Trung tâm Y tế khu công nghiệp có vai trò quản lý và giám sát tất cả các hoạt động y tế trong khu công nghiệp để đảm bảo dịch vụ chăm sóc sức khỏe đến tất cả người lao động một cách đầy đủ và công bằng. Đặc biệt, ngành quản lý cần xây dựng chức năng khám và chữa bệnh cho Trung tâm Y tế khu công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người lao động trong khu công nghiệp và công nhân lưu trú trên địa bàn. Thực tế cho thấy số lượng công nhân làm việc tại các khu công nghiệp có thể tương đương với dân số của một huyện trung bình, nhưng trong khu công nghiệp hiện không có đơn vị y tế để khám và chữa bệnh. Ngoài ra, cần cho phép Trung tâm Y tế kiểm soát tất cả các đơn vị cung cấp dịch vụ y tế cho các doanh nghiệp, từ đó quản lý và đảm bảo chất lượng và hiệu quả theo quy định, đồng thời chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Bác sĩ Phùng Thị Tuyến, từ Phòng khám Đa khoa quốc tế An Việt, đánh giá vai trò của mạng lưới y tế cơ sở trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Nhờ có mạng lưới y tế cơ sở phủ rộng, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và truyền thông giáo dục về sức khỏe được thực hiện một cách hiệu quả trong cộng đồng. Công tác tiêm chủng đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp vào việc loại bỏ và giảm căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát, vai trò của y tế cơ sở trở nên cực kỳ quan trọng.

Cử tri Phùng Thị Tuyến đánh giá rằng mặc dù nhiều Trạm y tế xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã được đầu tư và quan tâm, nhưng vẫn chưa thu hút đủ người bệnh đến khám. Nguyên nhân chính là do sự thiếu tin tưởng của người dân vào chất lượng khám, chữa bệnh; ngoài ra, nhiều Trạm y tế xã cũng thiếu cán bộ y tế chuyên khoa và chưa đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và đào tạo nhân lực, dẫn đến hiệu quả khai thác bị hạn chế và ảnh hưởng đến năng lực phát triển chuyên môn kỹ thuật tại các trạm. Hơn nữa, chế độ đãi ngộ cũng chưa thỏa đáng, dẫn đến việc nhiều người có kỹ năng đã chuyển công tác lên cấp trên hoặc xin nghỉ việc để gia nhập hệ thống y tế ngoài công lập; đồng thời, việc tuyển dụng cán bộ y tế có năng lực cũng gặp khó khăn.

Cử tri Phùng Thị Tuyến đề xuất Quốc hội và Chính phủ cần có giải pháp cụ thể để phát triển và nâng cao năng lực của hệ thống y tế cơ sở; cần thiết lập chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút y bác sỹ, đặc biệt là các chuyên gia chuyên khoa để làm việc tại các tuyến cơ sở; cần đầu tư quan tâm vào cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị cho các cơ sở y tế để đáp ứng yêu cầu; đồng thời, cần tăng cường tập huấn, chuyển giao kỹ thuật mới và nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở.

Hoạt Động KCN

Doanh nghiệp Nhật muốn xây nhà máy 200 triệu USD tại Hòa Bình

Được phát hành

,

Tập đoàn Meiko, một tập đoàn hàng đầu về sản xuất bản mạch điện tử và lắp ráp bản mạch điện tử hoàn chỉnh, đang có kế hoạch đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất các loại vi mạch điện tử tại khu công nghiệp Bờ trái sông Đà, TP Hòa Bình.

Theo thông tin từ Cổng thông tin tỉnh Hòa Bình, Tập đoàn Meiko của Nhật Bản đã đề xuất việc thuê lại đất và hạ tầng từ Công ty cổ phần thương mại Dạ Hợp – đơn vị đầu tư Khu công nghiệp bờ trái Sông Đà. Diện tích thuê tổng cộng là 9,2 ha, với mục tiêu đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất vi mạch điện tử trị giá 4.660 tỷ đồng, tương đương 200 triệu USD.

Tập đoàn Meiko kỳ vọng tỉnh Hòa Bình sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho dự án thành công. Lãnh đạo tỉnh đã cam kết cung cấp mọi điều kiện tối đa cho doanh nghiệp.

Meiko hiện có 5 nhà máy tại Nhật Bản và 2 nhà máy tại Trung Quốc, là một trong những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất bản mạch điện tử và lắp ráp bản mạch điện tử hoàn chỉnh.

Tại Việt Nam, tập đoàn Meiko đã chính thức đầu tư vào năm 2006 và thành lập nhà máy tại Khu công nghiệp Thạch Thất. Khi đó, dự án Meiko được xem là một trong 10 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài quy mô lớn nhất và cũng là dự án sản xuất điện tử lớn nhất do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện. Hiện nay, doanh nghiệp đã có tổng cộng 3 nhà máy sản xuất và lắp ráp bản mạch điện tử với tổng vốn đầu tư lên tới 500 triệu USD, tạo ra hơn 7.000 việc làm và đóng góp khoảng 30 triệu USD vào ngân sách hàng năm.

Đọc Tiếp Tục

Hoạt Động KCN

TP Hải Phòng dự kiến xây thêm 15 khu công nghiệp mới hơn 6.200 ha

Được phát hành

,

Thành phố Hải Phòng có kế hoạch mở rộng Khu kinh tế (KKT) Đình Vũ – Cát Hải và đồng thời triển khai xây dựng 15 khu công nghiệp mới với tổng diện tích lên đến 6.200 ha.

Theo Báo cáo quy hoạch TP Hải Phòng trong giai đoạn 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, phiên bản dự thảo đã được trình UBND thành phố để lấy ý kiến, Hải Phòng dự định mở rộng khu kinh tế (KKT) Đình Vũ – Cát Hải và triển khai xây dựng thêm 15 khu công nghiệp (KCN) mới với tổng diện tích trên 6.200 ha.

Xây dựng thêm 15 khu công nghiệp mới

Theo Báo cáo quy hoạch TP Hải Phòng cho giai đoạn 2021 – 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 – bản dự thảo đã được UBND thành phố lấy ý kiến, Hải Phòng dự kiến mở rộng khu kinh tế (KKT) Đình Vũ – Cát Hải và triển khai xây dựng thêm 15 khu công nghiệp (KCN) mới với tổng diện tích trên 6.200 ha.

Cụ thể, theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong các giai đoạn trước, Hải Phòng hiện có một KKT Đình Vũ – Cát Hải với diện tích 22.540 ha và 25 KCN theo quy hoạch với tổng diện tích 12.702 ha.

KKT Đình Vũ – Cát Hải dự kiến được mở rộng tại khu vực đảo Cát Hải và cảng Lạch Huyện để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng mạnh tại khu vực này cũng như thành phố nói chung.

Về các KCN đã được triển khai hoạt động, tính đến năm 2020, thành phố đã có 12 KCN đang hoạt động, đầu tư, xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng (8 KCN nằm trong KKT Đình Vũ – Cát Hải với diện tích 5.230 ha và 4 KCN nằm ngoài KKT với diện tích 768 ha).

Tỷ lệ lấp đầy trung bình của các KCN đang hoạt động đạt trên 62,5%. Trong đó, một số khu công nghiệp đã đạt tỷ lệ lấp đầy 100% như: KCN MP Đình Vũ, KCN Nomura, KCN Tràng Duệ (giai đoạn 1, giai đoạn 2), KCN Đình Vũ (1+2), KCN Đồ Sơn. Tỷ suất đầu tư trung bình đạt 9 triệu USD/ha.

Đối với các khu công nghiệp quy hoạch mới, theo Chương trình hành động số 76 của Ban Thường vụ Thành ủy, trong giai đoạn 2021 – 2025, thành phố Hải Phòng dự kiến triển khai xây dựng thêm 15 khu công nghiệp mới với tổng diện tích trên 6.200 ha.

Trong số đó, có 6 khu công nghiệp đang tập trung triển khai các thủ tục thành lập mới với tổng diện tích 2.758 ha, bao gồm: Dự án KCN Xuân Cầu (dịch vụ sau cảng) với diện tích 752 ha nằm trong KKT Đình Vũ – Cát Hải; và 5 dự án đã nộp hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư bao gồm: KCN Nam Tràng Cát, KCN Thủy Nguyên, KCN Tiên Thanh, KCN Tràng Duệ mở rộng, KCN Giang Biên II.

Còn 10 dự án đang hoàn thiện các quy trình, thủ tục để triển khai (tổng diện tích 3.466 ha) gồm: KCN Cầu Cựu, KCN An Hòa, KCN An Hưng – Đại Bản, KCN Vinh Quang, KCN Ngũ Phúc – Kiến Thụy, KCN Tân Trào – Kiến Thụy; KCN Sao Mai (Tiên Lãng 1), KCN đóng tàu Vinh Quang (Tiên Lãng 2), KCN Đảo Cái Tráp, KCN Nam Cầu Kiền (giai đoạn 2).

Bên cạnh đó, thành phố cũng đề xuất thêm 7 khu công nghiệp gồm: KCN Bến Rừng 2, KCN trên đảo Cát Hải – Lạch Huyện (KCN Lạch Huyện 1, KCN Lạch Huyện 2, KCN Lạch Huyện 3 – Vinfast, KCN Lạch Huyện 4 – CN kết hợp Logistic), KCN sân bay Tiên Lãng, KCN Tam Hưng – Ngũ Lão.

Thành lập 26 cụm công nghiệp
Về quy hoạch cụm công nghiệp, trong giai đoạn 2020 – 2025, Hải Phòng đã thành lập 26 cụm công nghiệp (CCN), trong đó bao gồm hai CCN mở rộng quy mô là CCN thị trấn Tiên Lãng và CCN Tàu thuỷ An Hồng.

Danh sách 26 cụm công nghiệp:

STT

Địa bàn

CCN

1

Huyện An Lão CCN Cẩm Văn (34,88 ha); CCN Chiến Thắng (30 ha); CCN An Thọ (50 ha); CCN Cửa Hoạt – Quán Thắng (45 ha); CCN Quang Hưng (50 ha)

2

Huyện Kiến Thụy CCN Tân Trào (75 ha); CCN Đoàn Xá (62,3ha)

3

Huyện Thủy Nguyên CCN Cao Nhân – Kiền Bái (45 ha); CCN Kênh Giang – Đông Sơn (70 ha); CCN Kiền Bái (45 ha); CCN cơ khí và đúc Thủy Nguyên (30 ha)

4

Huyện Tiên Lãng CCN Tiên Cường I (27 ha); CCN Tiên Cường II (48,7 ha); CCN Tiên Cường III (44 ha); CCN Đại Thắng (21,3 ha); CCN Quang Phục (50 ha); CCN Quyết Tiến (75 ha);

CCN thị trấn Tiên Lãng (49,64 ha); CCN thị trấn Tiên Lãng mở rộng (25 ha)

5

Huyện Vĩnh Bảo CCN Giang Biên (58 ha); CCN Dũng Tiến – Giang Biên (50 ha); CCN Nam Am (40 ha); CCN làng nghề Cổ Am (20 ha)

6

Huyện An Dương CCN phụ trợ Tràng Duệ (xã Hồng Phong) (75 ha);

CCN An Hồng (41,7 ha); CCN Tàu thủy An Hồng (mở rộng) (63,83 ha)

7

Huyện đảo Cát Hải CCN làng nghề nước mắm Cát Hải (17,04 ha)

Như vậy, Hải Phòng dự kiến có 5 khu vực phát triển công nghiệp chính với nội dung như sau:

STT

Khu vực

KCN giữ lại

KCN bổ sung thêm

KCN bỏ

Hướng phát triển

1 Khu vực phát triển công nghiệp Đình Vũ – Cát Hải gắn với cảng biển thuộc KTT Đình Vũ – Cát Hải Khu vực công nghiệp Đình Vũ, Nam Đình Vũ, Nam Tràng Cát, Lạch Huyện Các khu vực phát triển công nghiệp: Đảo Cái Tráp, Lạch Huyện mở rộng (Cát Hải)… Ưu tiên phát triển các loại hình công nghiệp điện tử, điện gia dụng, cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ vận tải biển, công nghiệp hỗ trợ công nghệ IT, logistic…
2 Khu vực phát triển công nghiệp phía Bắc Khu vực công nghiệp Thuỷ Nguyên – VSIP, khu vực công nghiệp Bến Rừng, Minh Đức – Tràng Kênh Khu vực công nghiệp Tam Hưng – Ngũ Lão và Bến Rừng 2 (Thuỷ Nguyên) Các khu vực công nghiệp Gia Minh, Gia Đức Khuyến khích áp dụng công nghệ sạch đối với khu vực công nghiệp cũ, phát triển công nghiệp đa ngành công nghiệp tổng hợp, cơ khí chính xác, sản xuất linh kiện, phụ tùng máy cơ khí, ứng dụng công nghệ cao…
3 Khu vực phát triển công nghiệp phía Tây (dọc Quốc lộ 10) Khu vực công nghiệp Nam Cầu Kiền, Nomura, An Hưng – Đại Bản, An Dương, Tràng Duệ, Cầu Cựu Khu vực công nghiệp Tràng Duệ giai đoạn 3 Ưu tiên phát triển loại hình công nghiệp cơ khí chế tạo các sản phẩm cơ khí phụ vụ các ngành kinh tế mũi nhọn, cơ khí chính xác, sản xuất kinh kiện, phụ tùng máy cơ khí có ứng dụng công nghệ kĩ thuật cao…
4 Khu vực phát triển công nghiệp phía Tây Nam (xung quanh thị trấn Vĩnh Bảo) Các khu vực công nghiệp An Hoà, Giang Biên II, Vinh Quang (Vĩnh Bảo); các Cụm công nghiệp Dũng Tiến, Tiên Thanh KCN thị trấn Vĩnh Bảo Ưu tiên phát triển công nghiệp đa ngành hỗ trợ các ngành công nghiệp mũi nhọn, chế biến ứng dụng công nghệ cao…
5 Khu vực phát triển công nghiệp phía Đông Nam (dọc sông Văn Úc và tuyến cao tốc ven biển) Khu vực công nghiệp Vinh Quang (đã được đổi tên thành KCN Tiên Lãng 1 và KCN Tiên Lãng 2), Ngũ Phúc – Kiến Thuỵ, các CCN Tiên Lãng, Tân Trào, Chiến Thắng, An Thọ Các khu vực công nghiệp Đoàn Xá, Tam Cường -Vĩnh Bảo, khu vực công nghiệp sân bay Tiên Lãng Ưu tiên phát triển công nghiệp đa ngành, cơ khí chế tạo các sản phẩm cơ khí siêu trường, siêu trọng, tàu thuỷ, công nghiệp hỗ trợ ngành hàng không, công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp hỗ trợ công nghệ IT, công nghệ sinh học

Sơ đồ phương án phát triển công nghiệp TP Hải Phòng giai đoạn 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050:

Sơ đồ phương án phát triển công nghiệp TP Hải Phòng giai đoạn 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050. (Ảnh chụp màn hình).

Đọc Tiếp Tục

Hoạt Động KCN

Do thiếu hệ thống thu gom nước thải hiệu quả, Khu công nghiệp Phú Hội đang gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư.

Được phát hành

,

KCN Phú Hội, Lâm Đồng gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư mới và mở rộng công suất các dự án hiện đang hoạt động do thiếu hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Theo Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Lâm Đồng, cho đến nay, KCN Phú Hội vẫn chưa được trang bị hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung.

Điều này đã gây ra nhiều khiếu nại về ô nhiễm môi trường tại KCN và vi phạm quy định pháp luật về bảo vệ môi trường. Sự thiếu hụt này cũng đã tăng chi phí đầu tư cho các dự án và ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư vào KCN Phú Hội.

Hiện nay, KCN Phú Hội không thể thu hút đầu tư dự án mới cũng như nâng công suất những dự án đang hoạt động do KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.

Cùng với đó, hiện trạng hạ tầng các khu công nghiệp chưa hoàn thiện và đồng bộ, các dịch vụ, tiện ích công cộng… chưa được đầu tư. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của dịch Covid – 19, kéo dài dẫn đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về nguồn nguyên liệu, vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Trong công tác thu hồi dự án còn khó khăn, đặc biệt những dự án đã xây dựng mà chưa đi vào hoạt động và còn một phần đang xây dựng dở dang, các dự án trong quá trình ngưng hoạt động sản xuất – kinh doanh, đầu tư xây dựng kéo dài.

Ngoài ra, dịch bệnh dịch Covid – 19 kéo dài cũng ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm,…dẫn đến tiến độ thực hiện dự án đầu tư còn chậm.

Đọc Tiếp Tục

Xu hướng