Kết nối với chúng tôi

Khu Kinh Tế

Khu kinh tế Nghi Sơn sắp được thay đổi hạ tầng

Được phát hành

,

Ngày 10-11, dưới sự chủ trì của đồng chí Đỗ Trọng Hưng, Bí thư Tỉnh ủy, hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa được tổ chức để cho ý kiến vào các nội dung liên quan đến Đề án giải phóng mặt bằng các khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nghi Sơn và nhiều đề án, tờ trình quan trọng khác…

Một góc Khu kinh tế Nghi Sơn

Thanh Hóa hiện có 25 khu công nghiệp thuộc Khu kinh tế Nghi Sơn với diện tích khoảng 9.057,9 ha và đã phê duyệt quy hoạch phát triển 8 khu công nghiệp ngoài Khu kinh tế Nghi Sơn với tổng diện tích 2.035 ha.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khó thu hút vốn FDI vào Thanh Hóa thời gian qua là việc xây dựng cơ sở hạ tầng một số khu công nghiệp, đặc biệt là hạ tầng các khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nghi Sơn vẫn chưa hoàn thiện và chậm tiến độ so với giấy phép đã được phê duyệt.

Việc giải phóng mặt bằng tại các Khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nghi Sơn tạo quỹ đất sạch thu hút đầu tư phát triển là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, Khu công nghiệp số 20 có tổng diện tích 604 ha, Khu công nghiệp số 21 có tổng diện tích 395 ha, là các khu công nghiệp tập trung đa ngành gồm: Công nghiệp nhẹ, công nghiệp phụ trợ, tổng kho đông lạnh…

Khu công nghiệp số 6 có tổng diện tích 549 ha, có tính chất quan trọng, phù hợp với định hướng phát triển, thu hút đầu tư tại Khu kinh tế Nghi Sơn theo điều chỉnh quy hoạch.

Các khu công nghiệp trên có vị trí quan trọng, là điểm nhấn thu hút các dự án của các nhà đầu tư tiềm năng để phát triển Khu kinh tế Nghi Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Hiện nay vị trí của 3 khu công nghiệp này được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu để đầu tư. Vì thế, việc tạo mặt bằng sạch hứa hẹn sẽ là nơi các “đại bàng” tìm đến “xây tổ”.

Phát biểu kết luận hội nghị, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng nêu rõ: Ban Thường vụ Tỉnh ủy cơ bản thống nhất với Đề án. Tuy nhiên, cần phải làm rõ, lý giải vì sao phải lựa chọn ưu tiên đầu tư, giải phóng mặt bằng khu công nghiệp số 6, số 20, số 21. Cùng với đó, trong đề án cần phải đặt vấn đề về mặt nhận thức, việc giải phóng mặt bằng các khu công nghiệp trên là “cuộc cách mạng” làm thay đổi một lần nữa về hạ tầng tại Nghi Sơn.

Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng lưu ý rằng việc giải phóng mặt bằng, xây dựng tái định cư cho người dân là vấn đề khó nhất, nếu không có tái định cư thì không bao giờ giải phóng được mặt bằng. Vì vậy cần phải làm có những giải pháp để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự đồng thuận trong Nhân dân.

Trong quá trình thực hiện giải phóng mặt bằng phải minh bạch, rõ ràng, đồng thời tổ chức để người dân được đến thăm vị trí và tham gia ý kiến xây dựng khu tái định cư mà mình đến định cư và sinh sống.

Việc xây dựng Khu tái định cư cần phải được công khai với người dân. Bên cạnh đó cần quan tâm đến các chế độ, chính sách để người dân được thụ hưởng những thành quả khi đã nhường đất để xây dựng các khu công nghiệp.

Cùng với đó, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa nhấn mạnh Đề án phải cụ thể hóa, quan tâm đến sinh kế để người dân. Trong đó, việc chuyển đổi nghề để ổn định cuộc sống ngay trong khu tái định cư phải được đặt lên hàng đầu.

Được biết, Khu kinh tế Nghi Sơn đã thu hút được xấp xỉ 14 tỉ đô la từ các dự án đầu tu nước ngoài trên địa bàn. Trong số đó phải kể đến dự án Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn có tổng mức đầu tư 9 tỉ đô la, Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2 có tổng mức đầu tư 2,8 tỉ đô la, Nhà máy xi măng Nghi Sơn có tổng mức đầu tư 650 triệu đô.

Các dự án này đang đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Chỉ riêng Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn năm 2022 có thể đóng góp 21.000 tỉ vào ngân sách địa phương. Bên cạnh các dự án FDI lớn, rất nhiều các nhà đầu tư trong nước cũng đã lựa chọn Nghi Sơn làm điểm đến.

Với việc gỡ “nút thắt” cho công tác giải phóng mặt bằng trong Khu kinh tế Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa kỳ vọng sẽ tạo ra hấp lực mới để thu hút nhứng nhà đầu tư tiềm năng tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong bức tranh kinh tế xã hội của địa phương trong thời gian tới.

Theo Vneconomy

Hoạt Động KCN

Trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp và logistics: Định hướng chiến lược của tỉnh Hậu Giang

Được phát hành

,

Hàng loạt công trình, dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia đã và đang triển khai trên địa bàn sẽ tạo thêm động lực để Hậu Giang hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp và logistics của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hậu Giang định hướng phát triển 3 vùng sinh thái công nghiệp với nhiều cơ chế để thu hút đầu tư. Trong ảnh: Khu công nghiệp Tân Phú Thạnh – giai đoạn I (huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang)

Động lực phát triển

Đầu năm 2023, Bộ Giao thông – Vận tải phối hợp với UBND tỉnh Hậu Giang và TP. Cần Thơ tổ chức Lễ khởi công Dự án thành phần đoạn Cần Thơ – Hậu Giang (thuộc Dự án Đầu tư xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025), với tổng chiều dài tuyến khoảng 37,65 km. Dự kiến, vào tháng 6 tới, tuyến cao tốc An Giang – Cần Thơ – Sóc Trăng sẽ được khởi công xây dựng. Tiếp theo đó, dự án cao tốc Hà Tiên – Rạch Giá – Bạc Liêu cũng được triển khai đầu tư theo quy hoạch.

Khi các dự án này hoàn thành và đi vào hoạt động, Hậu Giang sẽ nằm ngay vị trí giao cắt giữa các tuyến đường cao tốc, đóng vai trò là trung tâm kết nối trục dọc và trục ngang của các tỉnh trong khu vực. Đồng thời, các dự án cao tốc đi qua địa phương sẽ tạo dư địa để tỉnh mở rộng không gian phát triển về đô thị, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, logistics, tạo động lực tăng trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Đón đầu cơ hội này, định hướng giai đoạn 2021 – 2030, Hậu Giang quy hoạch 8 khu công nghiệp, 15 cụm công nghiệp với tổng diện tích khoảng 2.800 ha, cùng với đó là các trung tâm đô thị.

Quy hoạch tỉnh Hậu Giang thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 định hướng chiến lược với tư duy đột phá theo quan điểm “Một tâm, hai tuyến, ba thành, bốn trụ, năm trọng tâm” trên 3 mặt chiến lược không gian, chiến lược kinh tế và chiến lược quản lý. Trong đó, đưa không gian phát triển ngành công nghiệp trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế, thực hiện phương châm “Một tâm, hai tuyến, ba thành”.

Cụ thể, phát triển huyện Châu Thành trở thành trung tâm phát triển về công nghiệp và đô thị của tỉnh trong trung và dài hạn; tập trung khai thác phát triển theo 2 tuyến động lực là cao tốc Cần Thơ – Cà Mau kết nối với TP.HCM và tuyến Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng kết nối với các tỉnh Nam sông Hậu; ưu tiên phát triển nâng tầm các trung tâm đô thị TP. Vị Thanh, TP. Ngã Bảy và thị xã Long Mỹ…

Trong giai đoạn 2021 – 2025, Hậu Giang dành toàn bộ nguồn vốn Trung ương bổ sung có mục tiêu cho tỉnh để đầu tư các dự án khởi công mới thuộc lĩnh vực hạ tầng giao thông, hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng nông nghiệp. Đặc biệt, tỉnh tập trung rà soát, triển khai một số công trình giao thông trọng điểm để tạo nền tảng, sức lan tỏa cho phát triển kinh tế – xã hội, trong đó ưu tiên các tuyến kết nối với đường cao tốc, quốc lộ, kết nối thông thương nội tỉnh, kết nối tỉnh với các địa phương trong vùng.

Bên cạnh đó, Hậu Giang sẽ từng bước đầu tư hoàn chỉnh hệ thống giao thông trọng yếu của tỉnh: mở rộng Quốc lộ 61C (tuyến nối TP. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang với TP. Cần Thơ); đường tỉnh 931 (đoạn từ Vĩnh Viễn đến Xẻo Vẹt); đường tỉnh 926B, tỉnh Hậu Giang kết nối với tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp, tỉnh Sóc Trăng; dự án kết nối giao thông đường thủy, đường bộ 925B và kênh Nàng Mau.

Về giao thông thủy, tỉnh sẽ cải tạo, nâng cấp các tuyến đường thủy quan trọng như: kênh Lái Hiếu, Nàng Mau, Cái Côn, Xà No và Quản lộ – Phụng Hiệp… nhằm đáp ứng nhu cầu thông thương, vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa trong và ngoài tỉnh.

Phát triển 3 vùng sinh thái công nghiệp

Công nghiệp được xác định là ngành giữ vai trò trụ cột trong tăng trưởng kinh tế của Hậu Giang, được định hướng phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, giải quyết việc làm, tăng nguồn thu ngân sách địa phương, tạo nguồn lực phát triển các lĩnh vực khác.

Hậu Giang ưu tiên lựa chọn thu hút đầu tư các doanh nghiệp, dự án công nghiệp có tiềm năng, đóng góp lớn vào ngân sách, doanh nghiệp sử dụng lao động trong tỉnh. Trong đó, tập trung phát triển công nghiệp chế biến (rau, củ, quả, thủy sản, lúa gạo…) gắn với vùng nguyên liệu của địa phương, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, hướng đến xuất khẩu; công nghiệp chế tạo; công nghiệp hỗ trợ; năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió, điện khí…).

Theo quy hoạch, tỉnh Hậu Giang tập trung phát triển 3 vùng sinh thái công nghiệp. Cụ thể, vùng công nghiệp thứ nhất nằm ở khu vực huyện Châu Thành, Châu Thành A. Trọng tâm của khu vực này là phát triển các lĩnh vực công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, dược, mỹ phẩm, các cụm ngành logistics, chế biến nông sản, có liên quan tới đầu vào là sản phẩm nông nghiệp quy mô vùng.

Hậu Giang cam kết mạnh mẽ, chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp.

Vùng công nghiệp thứ hai ở khu vực giao giữa hai cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng và cao tốc Cần Thơ – Cà Mau, tại huyện Phụng Hiệp. Vùng công nghiệp này tận dụng thế mạnh ở điểm giao hai cao tốc, liên kết theo trục dọc sông Hậu và trục Bắc – Nam. Vùng này chú trọng phát triển các lĩnh vực công nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp chế biến, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ số, công nghệ môi trường, công nghiệp chế tạo.

Vùng công nghiệp thứ ba ở khu vực giao giữa hai cao tốc Hà Tiên – Rạch Giá – Bạc Liêu và cao tốc Cần Thơ – Cà Mau tại huyện Long Mỹ.

Định hướng 3 vùng công nghiệp này tập trung thành những vùng công nghiệp lớn, cấu trúc đất xây dựng công nghiệp được đan xen với những yếu tố sinh thái, cảnh quan, đô thị.

Để hiện thực hóa quy hoạch, tỉnh Hậu Giang thực hiện đồng bộ các giải pháp, như lập quy hoạch và kế hoạch chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp; ưu tiên nguồn lực thực hiện giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch; đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng khu – cụm công nghiệp; đầu tư hạ tầng giao thông cho các tuyến đường kết nối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp; ban hành cơ chế, chính sách đặc thù thu hút đầu tư, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp.

Trung tâm logistics của vùng

Nằm ở khu vực Nam sông Hậu, tiếp giáp với TP. Cần Thơ, Hậu Giang có lợi thế đặc biệt là trung tâm trung chuyển, kết nối giao thông, vận tải thủy bộ, thương mại – dịch vụ, logistics của vùng Nam sông Hậu với phần còn lại của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và các vùng kinh tế khác của cả nước thông qua các tuyến giao thông thủy, bộ như: sông Hậu, các tuyến quốc lộ 1, 61, 61B, 61C, Quản Lộ – Phụng Hiệp, Nam sông Hậu, tuyến giao thông Bốn Tổng – Một Ngàn, 2 tuyến cao tốc Cần Thơ – Cà Mau, Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng và Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ (cách các khu công nghiệp của tỉnh Hậu Giang khoảng 20 – 30 km).

Vị trí địa lý của Hậu Giang thuận lợi để các doanh nghiệp lựa chọn đặt các nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm, trung tâm logistics từ vùng nguyên liệu ĐBSCL. Tỉnh cũng có vị trí hấp dẫn để các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, đồ uống đặt nhà máy sản xuất hoặc tổng kho phân phối phục vụ thị trường khoảng 18 triệu dân ở ĐBSCL. Ngoài ra, nằm ở vị trí trung tâm, tiếp giáp giao thông thủy, Hậu Giang là địa điểm rất thuận lợi để làm tổng kho phân phối các mặt hàng có tải trọng lớn như vật liệu xây dựng, chất đốt… Vị trí lợi thế của Hậu Giang là cơ hội để đầu tư phát triển dịch vụ logistics.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có 3 trung tâm logistics đã hoàn thành và 2 dự án trung tâm logistic đang triển khai đầu tư xây dựng, gồm: Trung tâm Logistics Mekong; Khu trung tâm Logistics Hậu Giang; Khu trung tâm Logistics Nông sản xuất khẩu Hậu Giang; Dự án Tổng kho phân phối Mê Kông; Dự án Colde Store Logistics Hậu Giang.

Song song với việc đầu tư xây dựng hoàn chỉnh và đưa vào hoạt động hệ thống các trung tâm dịch vụ logistics đang trong giai đoạn đầu tư, tỉnh tiếp tục mời gọi đầu tư trung tâm dịch vụ logistics tại các cụm công nghiệp trong tỉnh, hướng đến hình thành một hệ thống dịch vụ logistics liên thông, kết nối với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tỉnh ưu tiên thu hút các dự án phát triển dịch vụ logistics có quy mô lớn, hiện đại, có sức lan tỏa lớn đến các ngành, lĩnh vực khác, nhất là các dự án hệ thống kho lạnh, hệ thống phân phối, trung tâm logistics, cảng biển để giải quyết nút thắt quan trọng của Hậu Giang cũng như ĐBSCL.

Nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào tỉnh nói chung, cũng như thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ logistics nói riêng, Hậu Giang tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thực hiện nghiêm quy định về thời gian giải quyết thủ tục hành chính đã được niêm yết, công bố và kịp thời hướng dẫn, giải quyết thủ tục hành chính cho nhà đầu tư, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường đối thoại với các nhà đầu tư, để tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp.

Hậu Giang cam kết mạnh mẽ, chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp. Thực hiện nhất quán tuyên ngôn “Một văn hóa, một ngôn ngữ”, Hậu Giang hành động vì chung một mục tiêu, chung một công việc, chung một hành động, vì sự phát triển của tỉnh nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; chuyển tư duy từ “quản lý hành chính” sang “phục vụ”, từ “cho phép, cấp phép” sang “được phép”, lấy doanh nghiệp, người dân là trung tâm phục vụ để hướng các cơ chế chính sách, các trải nghiệm tốt nhất tới doanh nghiệp và người dân.

Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định: “Phát triển các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng chuyên canh, kết nối với các đô thị gồm Trung tâm đầu mối tổng hợp ở TP. Cần Thơ gắn với phát triển dịch vụ logistics ở Hậu Giang”.

Nguồn: Tinnhanhchungkhoan.vn

Đọc Tiếp Tục

Khu Kinh Tế

Quy hoạch Khu kinh tế Vân Phong đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050: Cơ hội đầu tư và phát triển

Được phát hành

,

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Khu kinh tế Vân Phong (KKT Vân Phong) đến năm 2040, với tầm nhìn đến 2050. Theo quy hoạch, KKT Vân Phong sẽ bao gồm sòng bài, sân bay, khu đô thị và có diện tích khoảng 150.000 ha, trong đó phần mặt nước chiếm 80.000 ha và phần đất liền và đảo là 70.000 ha.

Với vai trò đầu tàu thu hút đầu tư, KKT Vân Phong sẽ trở thành khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực, tạo động lực phát triển kinh tế cho cả nước và các vùng lân cận. Trọng tâm của KKT Vân Phong sẽ là kinh tế biển, cảng trung chuyển container quốc tế và dịch vụ logistics, đô thị, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, kết hợp phát triển các ngành kinh tế khác.

KKT Vân Phong hướng tới trở thành khu vực phát triển đô thị thông minh bền vững với cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại, đồng bộ và đảm bảo an ninh quốc phòng quốc gia. Không gian phát triển các khu chức năng trong KKT Vân Phong được sắp xếp theo hướng các khu du lịch, dịch vụ du lịch, với tổng diện tích đất khoảng 2.613 ha.

Các khu phát triển dịch vụ, du lịch, bao gồm du lịch sinh thái, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng cao cấp, sân golf, casino, công viên chuyên đề, triển lãm du thuyền quốc tế và các hoạt động trải nghiệm, sẽ tập trung chủ yếu tại Hòn Lớn, bán đảo Hòn Gốm, Đại Lãnh và Dốc Lết, với tổng diện tích đất khoảng 2.613 ha.

Khu kinh tế Vân Phong (KKT Vân Phong) có kế hoạch phát triển các dịch vụ và du lịch bao gồm du lịch sinh thái, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng cao cấp, sân golf, casino, công viên chuyên đề và triển lãm du thuyền quốc tế. Tổng diện tích đất dự kiến cho các hoạt động này là khoảng 2.613 ha, tập trung chủ yếu tại khu vực Hòn Lớn, bán đảo Hòn Gốm, Đại Lãnh (2.027 ha), khu vực Dốc Lết (200 ha) và các khu vực khác (386 ha).

Theo quy hoạch được phê duyệt, KKT Vân Phong sẽ phát triển cảng hàng không trên diện tích khoảng 500 ha tại khu vực phía bắc Vân Phong, thuộc xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh. Các khu vực phát triển sân golf dự kiến được bố trí tại đảo Hòn Lớn, khu Đầm Môn và khu vực Tuần Lễ – Hòn Ngang. Tổng diện tích đất dành cho phát triển sân golf đến năm 2030 tại Đầm Môn là 176 ha, trong khi các khu vực khác là khoảng 479 ha.

Về phát triển dân cư đô thị, dự kiến diện tích đất sẽ chiếm gần 5.400 ha, bao gồm các khu vực Đầm Môn, Cổ Mã – Tu Bông, Vạn Giã và vùng phụ cận, đông-bắc Ninh Hòa và đông-nam Ninh Hòa. Các khu vực Đầm Môn, Vĩnh Yên – Mũi Đá Son sẽ có tỷ lệ đất phát triển dân cư đô thị không quá 10% tổng diện tích đất tự nhiên khu vực bán đảo Hòn Gốm. Đồng thời, không hình thành đất đơn vị ở tại đảo Hòn Lớn, đảo Điệp Sơn và núi Khải Lương.

Những thông tin trên cho thấy tiềm năng phát triển du lịch và dịch vụ tại KKT Vân Phong đang ngày càng được khai thác, đáp ứng nhu cầu của du khách và địa phương.

Đọc Tiếp Tục

Khu Kinh Tế

Thanh Hóa đầu tư giải phóng mặt bằng khu kinh tế Nghi Sơn với hơn 11.300 tỷ đồng

Được phát hành

,

Mới đây, Tỉnh Thanh Hóa đã bắt đầu khởi động đề án giải phóng mặt bằng (GPMB) tại Khu kinh tế Nghi Sơn với tổng kinh phí hơn 11.300 tỉ đồng.

Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo thực hiện đề án GPMB

Tỉnh ủy Thanh Hóa cho biết, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa vừa có quyết định số 1887 về việc thành lập Ban Chỉ đạo (BCĐ) thực hiện Đề án GPMB, đầu tư xây dựng các khu tái định cư và GPMB các khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nghi Sơn (gọi tắt là BCĐ 1887).

Sau khi có quyết định thành lập, BCĐ 1887 đã tổ chức hội nghị lần thứ nhất, dưới sự chủ trì của ông Đỗ Trọng Hưng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Thanh Hóa.

Theo quyết định thành lập, BCĐ 1887 có 23 thành viên, do ông Đỗ Trọng Hưng làm trưởng ban. Các ông Nguyễn Văn Thi, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Thanh Hóa, và ông Nguyễn Tiến Hiệu, Trưởng ban Quản lý Khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp tỉnh Thanh Hóa làm Phó ban.

Để thực hiện hiệu quả đề án, ông Đỗ Trọng Hưng đã yêu cầu các đơn vị, thành viên khi tiến hành xây dựng quy chế làm việc, thì việc phân công nhiệm vụ cho từng thành viên phải cụ thể, rõ người, rõ việc, trên cơ sở chức trách nhiệm vụ của từng thành viên, đảm bảo không làm thay việc người khác nhưng cũng không bỏ sót việc thuộc phạm vi chức trách được giao.

Khu Kinh Tế Nghi Sơn Thanh Hóa
Khu kinh tế Nghi Sơn – Thanh Hóa đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng.

Hơn 11.300 tỉ đồng để giải phóng mặt bằng trên 1500 ha

Để thực hiện được dự án thì phải có mặt bằng, phải giải phóng được mặt bằng. Xác định nhiệm vụ GPMB là vấn đề khó khăn nhất, và là nhu cầu rất lớn ở Khu kinh tế Nghi Sơn, nên tháng 12.2022, HĐND tỉnh Thanh Hóa thông qua Đề án GPMB, đầu tư xây dựng các khu tái định cư và GPMB các khu công nghiệp trong Khu kinh tế Nghi Sơn. Đề án thực hiện trong giai đoạn 2023 – 2027, với tổng mức tiền sử dụng để thực hiện đề án là hơn 11.300 tỉ đồng.

Theo đó, đề án sẽ thực hiện GPMB, đầu tư xây dựng các khu tái định cư và GPMB các khu công nghiệp số 6, số 20, và số 21 nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn. Tổng diện tích cần GPMB là hơn 1.500 ha.

Trong đó, khu công nghiệp số 21 sẽ cần 1.121 tỉ đồng để GPMB khoảng 395 ha lấy đất thực hiện các dự án. Đồng thời GPMB lấy đất để xây dựng các khu tái định cư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu tái định cư.

Đối với khu công nghiệp số 6, cần khoảng 7.254 tỉ đồng để GPMB 549 ha đất thực hiện dự án; và GPMB, đầu tư các khu tái định cư, hạ tầng kỹ thuật cho các khu tái định cư.

Còn khu công nghiệp số 20 sẽ cần khoảng 2.997 tỉ đồng để GPMB 604 ha đất thực hiện các dự án; và xây dựng các khu tái định cư.

Tỉnh Thanh Hóa xác định việc thực hiện thành công đề án GPMB trên sẽ từng bước xây dựng, phát triển KKT Nghi Sơn trở thành một trong những trung tâm công nghiệp – đô thị và du lịch ven biển trọng điểm của cả nước, với các tổ hợp công nghiệp mũi nhọn là: lọc hóa dầu, nhiệt điện, luyện cán thép, xi măng, chế biến hàng xuất khẩu.

Theo Báo Thanh Niên

Đọc Tiếp Tục

Xu hướng